Thứ năm, 21/11/2024 - 16:31

Tư tưởng Phật giáo thể hiện qua hình tượng Tôn Ngộ Không

Bốn nhân vật của Tây du kí là để tiêu biểu cho bốn cái thức của mỗi con người chúng ta. Tam tạng là tiêu biểu cho A-lại-da thức, có vẻ vô tư, vô thiện, vô ác, vô phú, vô kí tính. Trư Bát giới là tiêu biểu cho đệ thất thức, anh đó say mê ăn ngủ...

 

         Bốn nhân vật của Tây du kí là để tiêu biểu cho bốn cái thức của mỗi con người chúng ta. Tam tạng là tiêu biểu cho A-lại-da thức, có vẻ vô tư, vô thiện, vô ác, vô phú, vô kí tính. Trư Bát giới là tiêu biểu cho đệ thất thức, anh đó say mê ăn ngủ, ưa chấp ngã lắm, cho nên bao nhiêu cái hư hỏng phiền não là do anh mà ra hết. Rồi ý thức là Tề Thiên Đại Thánh, là anh bay trên trời cũng được, lặn xuống nước cũng được. Quá khứ vị lai hiện tại Tôn Ngộ Không đều biết cả. Tiền ngũ thức là Sa Tăng. Sa Tăng là anh xuôi xuôi theo vậy thôi, đó là đặc tính của tiền ngũ thức, gặp đâu hay đó, gặp sắc thì hay sắc, gặp tiếng thì nghe tiếng, hễ tiếng qua đi rồi thì thôi.

 

         Kể từ khi nhận giới hạnh, trở thành đệ tử của Phật giáo, Ngộ Không bao giờ cũng thể hiện niềm kính tín đối với Phật tổ và các vị Bồ Tát. Tuy nhiên, đức tin của Ngộ Không xuất phát từ sự minh triết, giác ngộ thực sự, và luôn luôn tiềm ẩn tinh thần phê phán chứ không giống như sự cuồng tín và cố chấp của Đường Tăng. Bằng chứng rõ nhất là tuy ở cương vị đồ đệ nhưng chính Ngộ Không lại là người rất nhiều lần giảng giải giáo lí Phật giáo cho sư phụ của mình. Điều này một mặt có nguồn gốc từ bản thân lí tưởng bình đẳng, bác ái, và tinh thần đề cao giác ngộ bằng sự thể nghiệm cá nhân của Phật giáo nói chung. Mặt khác, nó là sản phẩm của tinh thần thực tiễn của người Trung Quốc vốn được thể hiện rất rõ trong Phật giáo Thiền tông. Nó tạo nên cái cung cách ứng xử cũng khá ngang tàng giữa Ngộ Không với các thần thánh Phật giáo: phản ứng tức khắc mỗi khi cảm thấy các “bề trên” không minh chính hoặc tỏ ra không xứng đáng. Như lần đến mời Quan Âm Bồ Tát hàng phục Hắc đại vương, Bồ Tát vừa mở miệng hỏi Ngộ Không đã nói ngay ý nghi ngờ của mình, chẳng cần úp mở: “Sư phụ tôi dọc đường có gặp một ngôi chùa thờ ngài, ngài được người ta thờ cúng, mà lại cho con yêu tinh gấu đen ở bên cạnh, để nó ăn trộm áo cà sa của sư phụ tôi, mấy lần đòi nó không trả, nay tôi đến đòi ngài đấy!”. Hay lần này Di Lặc giáng hạ bắt quái Hoàng Mi, ban đầu Ngộ Không tỏ ra rất lễ độ với Phật tổ, nhưng vừa nghe nói: “hắn chính là tên tiểu đồng lông mày vàng giữ chiếc khánh cho ta” là lập tức đổi giọng, lớn tiếng quát: “Hòa thượng đáng cười này giỏi thật! Ngài bỏ sống tiểu đồng, để hắn ngông cuồng xưng là Phật tổ hãm hại lão Tôn, không thể miễn lỗi gia pháp không nghiêm!”

 

         Mĩ Hầu Vương đặc biệt có đôi mắt vàng sáng chói, chiếu suốt qua các cung Trời làm Ngọc Hoàng rung động, kinh ngạc. Đôi mắt vàng ấy phân biệt rõ chính tà, hư thật. Đôi mắt vàng ấy đã giàn giụa nước mắt trước cảnh đời vô thường, khổ đau đi tìm đường học đạo bất sinh bất diệt từ Tôn giả Tu Bồ Đề tại một xứ xa xăm. Đôi mắt vàng ấy đã là linh hồn của cuộc hành trình thỉnh Kinh mà thiếu nó thì tức thời phái đoàn rơi vào ma nạn.

         Đôi mắt vàng ấy là gì, nếu không phải là biểu tượng của trí tuệ Bát Nhã, của giáo lí trí tuệ Phật giáo?

         Như giáo lí Phật giáo đã "dựng đứng dậy những gì bị quăng ngã xuống, mở ra những gì bị che kín”, đôi mắt vàng của Mĩ Hầu Vương đã thấy và đã làm cho chúng ta thấy cái sự thật mộng mị, bất toàn, hư dối từ Âm phủ đến Thiên cung. Cuộc đại náo của Tề Thiên Đại Thánh tại Long cung và Thiên cung là sự đánh thức dậy sự thật ấy cho chúng sinh tại đó thấy rõ lối ra khỏi vô thường, không thật để đi vào nguồn giải thoát chân thật. Vì vậy chiếc thiết bổng nặng nghìn cân của Đại Thánh Tề Thiên, biểu hiện sức mạnh của đôi mắt vàng, là chiếc gậy đánh thức mà không phải nổi loạn, là xây dựng mà không phải đập phá. Chiếc gậy sắt ấy đập phá các nguyên nhân gây ra khổ đau cho cuộc đời và xây dựng an lạc, hạnh phúc của vô sinh. Chỉ đôi mắt vàng tuyệt vời kia xuất hiện trong tiểu thuyết hay truyện phim là đủ để chúng ta đánh giá cao tiểu thuyết ấy, phim ấy.

 

         Hầu như suốt thời gian theo dõi cuộc hành trình thỉnh Kinh, chúng ta đã bị cuốn hút bởi cái nhìn chính xác và bởi thái độ tự chủ trước các hiểm nạn và trước mọi cám dỗ của Tôn Hành Giả. Mỗi cái nhìn, mỗi bước đi của Hành Giả như vang vọng lời Kinh Bát Nhã:

         “…Dĩ vô sở đắc, cố Bồ-đề-tát-đoả y Bát Nhã Ba La Mật-đa, cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn li điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn”.

         Hồi thứ hai là hồi học đạo và hành đạo của Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không đã học, bàn luận, hành “Tam thừa giáo” và “Nhất thừa giáo” suốt bảy năm liền, như Ngô Thừa Húc giới thiệu:

“…Diễn đủ Tam thừa giáo

Lúc diễn thiền môn, khi giảng đạo

Ba nhà hợp lại nghĩa thêm càng"

         Trong thời gian này Tôn Ngộ Không làm công tác của một người xuất gia, chấp tác và thực hành văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ để nuôi dướng trí tuệ giác ngộ Không tính (Vô ngã tính) của các pháp. Ngô Thừa Ân đã vẽ nên thời gian tu tập này rành rẽ hệt như một nhà Phật học chính gốc. Động cơ và nguyện vọng xuất gia của Tôn Ngộ Không là để giải thoát hết thảy phiền não, khổ đau của sinh tử rất tương ứng với giáo lí của Phật giáo. Ngô Thừa Ân đã dẫn dắt Tôn Ngộ Không đi đúng tiến trình Giới, Định Tuệ giải thoát khiến cho người đọc Tây du kí không còn nghi ngờ giá trị của bộ tiểu thuyết này mà trong tâm là giới thiệu con đường (hay lộ trình tu tập giải thoát của đạo Phật).

         Sau bảy năm hành đạo, khi Tôn Ngộ Không hiểu rõ đường đi và chỗ đến, Tôn giả Tu Bồ Đề dạy tiếp tục công phu thiền chỉ và thiền quán để chế ngự thân và ý, để điều hòa thân và điều hòa tâm. Tôn Ngộ Không thực hành công phu này trong ba năm thì sáng tỏ tâm và tuệ. Một hôm Tôn giả hỏi Tôn Ngộ Không:

         “- Ngươi tu đã đắc quả gì rồi?

          - Đệ tử gần đây pháp tính hơi thông, căn nguyên cũng dần kiên cố.”

         Đã thông pháp tính, đã rõ căn nguyên, còn phải đề phòng ba tai họa nữa (nghĩa là cần tiếp tục công phu chỉ, quán để vượt qua ba tai họa ấy), điều mà kinh nghiệm giải thoát của Tôn Ngộ Không chưa đặt chân đến được. Do vì thành quả tu tập của Tôn Ngộ Không ngang đây là sắp cướp được quyền sinh diệt của tạo hóa nên tạo hóa sẽ giáng xuống ba tai họa. Đó là họa “sét đánh” có thể làm ngưng trệ sinh mệnh giải thoát; họa “âm hỏa” (không phải là lửa trời, cũng không phải là lửa của người) và họa “bi phong” (không phải là gió trời) rất mạnh cũng gây ảnh hưởng khốc hại đến sự nghiệp giải thoát.

 

         Ngôn ngữ của Ngô Thừa Ân tại đây rất là tiểu thuyết và rất là biểu tượng, nhưng đồng thời cũng diễn đạt các bước đi tu tập giải thoát rất là thiện xảo.

         Tôn Ngộ Không là biểu trưng cho Chính kiến và Chính tư duy (Thánh tuệ uẩn) của mỗi hành giả, là trí tuệ Vô ngã thấy rõ mọi hiện hữu là Vô ngã, vô thường và dẫn đến tan rã, khổ đau. Trí tuệ ấy khác với trí tuệ sinh diệt. Nó là vô sinh nên tác giả Ngô Thừa Ân giới thiệu Mĩ Hầu Vương được sinh ra từ trứng đá, kết tinh của tú khí trời đất. Trí tuệ ấy tự biết tìm đường đi ra khỏi sinh tử như Mĩ Hầu Vương biết tìm đường đến với đại đệ tử của Đức Phật (Tôn giả Tu Bồ Đề) để học đạo sinh bất diệt.

         Tôn giả Tu Bồ Đề là vị đệ nhất li dục, li ái (còn có nghĩa là đệ nhất rời chấp thủ hết thảy các ngã tướng) trong hàng đệ tử của Đức Phật – theo Kinh Kim Cang Bát Nhã - Đạo mà Mĩ Hầu Vương được truyền dạy là thấy rõ Vô ngã tướng  (hay không tướng) của vạn hữu và tự tâm rời xa mọi tham ái. Nắm được sở đắc ấy thì liền tự tại, ở ngoài mọi khổ đau. Sự kiện tự tại này đã được Ngô Thừa Ân biểu hiện qua 72 phép thần thông biến hoá của pháp môn Địa - sát.

         Trí tuệ này là cao nhất để đi đến trí tuệ giải thoát sau cùng, không còn trí tuệ nào khác cao hơn, nên được gọi là Vô sư trí. Vì thế, Tôn giả Tu Bồ Đề cấm Tôn Ngộ Không tiết lộ danh tính của Thầy dạy đạo cho mình.

         Đạt được trí tuệ xa lìa khổ đau ấy, Mĩ Hầu Vương nhận được pháp danh là Tôn Ngộ Không. Chữ Tôn, theo lời cắt nghĩa của Tôn giả Tu Bồ Đề, nếu xoá bộ khuyển bên cạnh thì thành chữ Tử (con) và chữ Hệ (trẻ con). Như thế trí tuệ của Tôn Ngộ Không đang ở thời kì của mầm nhân giải thoát sau cùng, trí tuệ này cần được tu lập thêm Giới và Định.

         Trí tuệ tự thân nó là động, tháo động, vì thế Tôn Ngộ Không mang thân tướng giống khỉ. Cái động của trí tuệ cần được thuần hoá và nuôi dưỡng bằng định tâm và sự thực hành giới hạnh. Định tâm sẽ rửa sạch cái động của y, giới đức sẽ rửa sạch cái động của thân, khẩu. Chưa đủ, có những thời điểm manh động của trí cần phải nhờ đến đại định để chế ngự như là Tôn Ngộ Không cần phải đội trên đầu chiếc vòng “Khẩn cô nhi” (còn gọi là vòng “Kim cô” hay vòng “định tâm”) và cần được chế ngự bởi “định tâm chú” (hay chú Khẩn cô nhi) của Bồ Tát Quan Thế Âm.

 

         Khi mà trí tuệ ấy chưa được Giới, Định chế ngự và nuôi dưỡng thì nó sẽ bị Năm uẩn (hay vũ trụ, cuộc đời) khống chế với vô lượng phiền não. Đây là hình ảnh mà Tôn Ngộ Không bị Ngũ hành sơn chụp lên mình năm trăm năm mà không trăn trở được. Đó là cái họa đại náo Thiên cung của Tề Thiên Đại Thánh, do vì Đại Thánh thấy rõ cái hư, cái rởm của trên trời và dưới thế, không chịu được nữa mà đại náo, đập phá, đạp đổ.

         Sau khi thấy rõ hậu quả của tâm tháo động, Tôn Ngộ Không sẵn sàng hướng về bi tâm, giải thoát tâm như đã sẵn sàng chờ Đường Tăng, để theo phò tá, ròng rã suốt 500 năm. Nếu bi tâm khởi, tâm giải thoát (đại định khởi) thì Tôn Ngộ Không thoát li được sự trói chặt của Năm uẩn như sau khi phá đổ Ngũ hành sơn và lên đường Tây du.

 

         Đề tài của Tây du kí là chuyện đi lấy kinh. Bản thân câu chuyện này được phát triển với tiền đề định sẵn là khẳng định Phật giáo, nên chính nó đã mang màu sắc tôn giáo rồi. Trải qua một quá trình lưu truyền lâu dài, được bao người bổ sung, sửa chữa, trau chuốt, ngoài việc phản ánh tư tưởng, tình cảm của quần chúng nhân dân, nó còn mang theo những tạp chất khác. Trong xã hội phong kiến, thế lực Phật giáo tỏa ra khắp nơi, vì trình độ nhận thức của thời đại hạn chế, người ta rất dễ bị ảnh hưởng. Ngô Thừa Ân không tránh khỏi những quan niệm tôn giáo nào đó. Bởi thế, trong Tây du kí cũng tồn tại tư tưởng định mệnh, tư tưởng nhân quả báo ứng và Phật pháp vô biên. Thí dụ, chín chín tám mươi mốt vạn, không thể thiếu vạn nào. Vả lại, thường là lúc tai qua nạn khỏi, có một vị thần phật đến thuyết giáo một hồi, nào là “cái ăn, cái uống đều do tiền định”, nào là “ma chướng chưa hết, cho nên bách linh hạ giới, phải chịu tai nạn”. Như vậy là điều hòa cuộc đấu tranh của Tôn Ngộ Không với thuyết định mệnh. Những chỗ tuyên truyền nhân quả báo ứng cũng không ít, rõ ràng nhất là chuyện Lưu Toàn dâng dưa và chuyện hạn hán ở quận Phượng Tiên. Trong câu chuyện thứ hai, Tôn Ngộ Không thật như một ông thầy giảng về “khuyến thiện”. Còn như tư tưởng Phật pháp vô biên thì biểu hiện cụ thể ở việc Tôn Ngộ Không bị Như Lai khống chế, tuy y có tài nhào một cái là xa mười vạn tám ngàn dặm, nhưng lại không vượt khỏi lòng bàn tay Như Lai. Những điểm này có mâu thuẫn ít nhiều với tư tưởng chủ để của toàn sách, đồng thời cũng phản ánh mâu thuẫn trong thế giới quan của tác giả. Nhưng so sánh với thành tựu rực rỡ của bộ truyện, thì những khuyết điểm đó chỉ là thứ yếu.

 

         Cốt truyện Tây du kí liên quan đến đạo Phật, nhưng tác phẩm không nhằm mục đích tuyên truyền đạo Phật. Đạo Phật ở đây được hiểu như một lí tưởng chính trị, một ước mơ về tự do, bình đẳng. Đó là dấu ấn của tư tưởng nhân dân hình thành trong quá trình truyền miệng câu chuyện Tây du của vị sư trẻ đời Đường. Chính vì thế, khác với lịch sử, nhân vật chính quyết định thành bại của chuyến đi không phải là nhà sư, mà là Tôn Ngộ Không. Nếu không có Tôn Ngộ Không dùng gậy thần mở một con đường máu thì một bước họ cũng không đi nổi. Nhân vật phi thường này trở thành biểu tượng của người anh hùng phản kháng, của tư tưởng chống đối các thế lực bạo tàn, của lòng dũng cảm và trí thông minh có thể chiến thắng mọi thứ thiên tai nhân hoạ. Đó là bóng dáng của các cuộc khởi nghĩa nông dân vang dội thời Minh. Ý chí sắt đá, tinh thần lạc quan, tư tưởng đánh và quyết đánh của Tôn Ngộ Không cũng như quá trình Tây du thắng lợi của đoàn người thỉnh kinh đã phản ánh quyết tâm vươn tới một cuộc sống tốt đẹp của nhân dân Trung Quốc.

         Tây du kí ra đời như là tiếng mời gọi nhân dân Trung Hoa chú ý đến tiếng nói rất trí tuệ, hiện thực và nhân bản vọng về từ Tây Trúc. Không phải là chú ý đến sự nghiệp Tây du thỉnh kinh của Đường Tăng, mà là chú ý đến nhân cách được xây dựng từ giáo lí này: một nhân cách sống vì hạnh phúc an lạc của số đông, sống hiền thiện vì công bằng, bình đẳng, tôn trọng sự thật, trách nhiệm cá nhân và đặc biệt là sống tùy duyên rất là trí tuệ.

 
 
 
 

Link trên báo:

http://ngoisao.net/tin-tuc/phong-cach/choi-blog/triet-ly-nha-phat-sau-sac-o-tay-du-ky-2605519.html

 

 

***Trích dẫn từ Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Văn học năm 2010: 

“HÌNH TƯỢNG TÔN NGỘ KHÔNG TRONG TÂY DU KÍ CỦA NGÔ THỪA ÂN”

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thanh Diên

Sinh viên thực hiện     : Đỗ Thái Hà

Trường: Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội


Tác giả: © dothaiha - nhanvanblog.com

Bài viết liên quan
Nội dung đang được cập nhật.
Người là cuộc tu hành đẹp nhất kiếp này của tôi
Người là cuộc tu hành đẹp nhất kiếp này của tôi
Chẳng cầu trong những năm tháng đẹp nhất gặp được người tốt nhất, chỉ nguyện những năm còn sống được tương phùng, lựa chọn một tòa thành sống với nhau đến già. ...
Tiếng dương cầm vọng mãi
Tiếng dương cầm vọng mãi
Chẳng ngôn ngữ nào êm dịu và trầm lắng cho bằng ngôn ngữ của thi ca Chẳng âm điệu nào thiết tha cho bằng cung thanh trầm của khúc nhạc... Tôi có một tình yêu lớ...
Nắng ấm quê hương
Nắng ấm quê hương
Quê hương là gì hở cha?Ai đi xa cũng nhớ nhiều... Phải thừa nhận rằng từ trước giờ, con chưa bao giờ nghĩ đến khái niệm Quê hương. Và cũng chưa một lần, con tự ...
THÀNH NGỮ TRUNG HOA

THÀNH NGỮ TRUNG HOA

Ngọc bất trác, bất thành khí  Nhân bất học bất tri lý Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ Vô duyên ...
Status 129 trên Nhân Văn Blog

Status 129 trên Nhân Văn Blog

Âm nhạc luôn luôn là nguồn hạnh phúc cho tất cả mọi người sống trên trái đất. Không có âm nhạc thế ...
43 câu nói ý nghĩa

43 câu nói ý nghĩa

1. Bộc lộ sự nóng nảy ra ngoài, đó gọi là bản năng. Kìm nén sự nóng nảy vào bên trong, đó gọi là ...
Như một người cha

Như một người cha

Trong cuộc đời mỗi chúng ta, luôn có những người đã dạy ta một điều gì đó khiến cuộc đời ta thay ...
Người tuổi Dần

Người tuổi Dần

Trời sinh người tuổi Dần rất nhạy cảm, và có giác quan thứ sáu, có khả năng nhìn thấu nội tâm của ...

"Nhân sinh nhược chích như sơ kiến....
Nếu cuối cùng mọi thứ đều phải tan biến, chỉ xin được giữ lại ánh nhìn buổi ban sơ..."

Bụng chứa thi thư, 

phong thái tự đẹp!

Hữu xạ tự nhiên hương

Ngọc bất trác, bất thành khí 

Nhân bất học bất tri lý

Nhất tự thiên kim

Thiên ngôn vạn ngữ

Tri nhân tri diện bất tri tâm

Video clip