Đời người có rất nhiều cuộc gặp gỡ, cho dù bạn lựa chọn đi trên con đường nào, đều có những người đi đường lướt qua nhau. Hồng trần như thế, đạo tràng bồ đề cũng như thế. Trong sự tụ tán ly hợp tất nhiên đó, những người này sẽ có một ngày bỏ bạn mà đi. Duyên sâu duyên mỏng, năm dài tháng ngắn, cũng chỉ giữa sự qua lại lại qua.
Nhân duyên lưu chuyển, khởi diệt đều không thể dự đoán. Thế gian này không ai có thể thực sự đi cùng bạn đến phút cuối của cuộc đời, vạn cổ bất biến, chỉ có non xanh nước biếc. Những sinh linh đã thấu hiểu Phật tính, trên chặng đường xa xôi chắc chắn sẽ không mê lạc, không cô đơn. Dòng người đi lướt qua nhau, có rất nhiều cơ duyên nhầm lẫn, mất mát đều trở thành thu hoạch. Bởi vì, cho dù chỉ còn lại một chiếc giường lạnh, một chiếc áo cũ, một bát cháo trắng, chúng ta vẫn có thể dựa vào chính mình.
Mỗi người đều là hòn đá bắc qua sông, đều là ngọn đèn soi sáng cho chúng ta hướng về. Gặp gỡ là mây tụ, ly biệt là mây tan, đều sẽ không ảnh hưởng đến vẻ đẹp của bầu trời. Chầm chậm thả bước trên đường nhỏ giao nhau giữa hồng trần, đi cùng ai cũng không quan trọng. Quan trọng là bản thân tìm thấy con đường sáng tỏ, thông suốt, sau đó, nước biếc bờ mây, trời cao đất rộng, nhàn nhã vô cùng.
Tuỳ duyên tự tại, tự tại tuỳ duyên. Một hạt bụi chứa vạn tượng, một ý niệm chứa ba ngàn. Người đời luôn thích coi gặp gỡ là kiếp số, coi danh lợi là lưới trần không thể thoát khỏi. Nhưng lại không biết, một cái tâm thiền định có thể gánh vác được phong vân biến đổi, sóng cuộn dâng trào của hết thảy nhân gian. Những con người đã từng gặp nhau đường hẹp đó đi về đâu, vốn đã không cần câu trả lời nữa.
“Kinh Viên Giác[24]” viết: “Nhất thiết chúng sinh chủng chủng huyễn hoá, giai sinh Như Lai viên giác diệu tâm, do như không hoa, tòng không nhi hữu. Huyễn hoá tuy diệt, không tính bất bại, chúng sinh huyễn tâm, hoàn y huyễn diệt, chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động,” (Tạm dịch: Tất cả chúng sinh và mọi vật huyễn hoá, đều sinh từ Viên giác diệu tâm Như Lai, ví như hoa ảo trong hư không, từ hư không mà có. Hoa ảo tuy diệt mà tính hư không không hoại, tâm ảo của chúng sinh lại y nơi pháp ảo mà diệt, pháp ảo tâm ảo diệt hết thì tính giác bất động) Đời người như ảo mộng, một người lướt qua, một người quay đầu, liền thành vật nay còn đó người đã khác xưa. Đối với quá khứ, chớ nên ngoái nhìn lưu luyến, mà hãy để nó sạch trơn như gió mát, thong thả như mây trôi.
Người tu hành, hết thảy pháp, đều là Phật pháp; hết thảy tâm, đều là Thiền tâm. Dùng đôi mắt Bát Nhã nhìn thế gian Ta Bà, mỗi một hạt bụi đều có định lực, mỗi một cọng cỏ đều là thuốc lành, mỗi một tấc đất đều nở rộ hoa sen. Nhân gian là đạo tràng tu hành hoàn mỹ nhất, trong khói lửa vẩn đục có thể tìm thấy một chiếc gương trong sáng, thấy chân tính mà thành Phật[25]. Từ đó trăng thanh gió mát, vui vẻ bình an, trời nước một màu, sơn hà tự tại.
Phật du hành giữa nhân gian, chúng sinh đều có cơ duyên gặp Phật. Có thể tại một ngõ mưa, đá xanh nào đó, một bến đò ly biệt nào đó, hoặc là một con đường núi lá rụng đầy nào đó. Lại hoặc là cùng uống một ấm trà, cùng hái một nhành hoa, ngồi cùng một tấm nệm. Những nơi Phật đi qua đều là quốc thổ thanh tịnh. Những nơi Phật đã ban phát tình yêu, đều là thế giới bồ đề.
Đối với Thiền giả, tất cả nhân duyên, tất cả vui buồn, đều có thể được hong khô dưới ánh nắng mặt trời. Một bậc Thiền giả, cái người đó truy cầu không phải là nội tâm sâu sắc thế nào, mà là làm thế nào để tâm trong như nước. Dù bước đi trên rừng đao núi kiếm, vẫn có thể ung dung kiên định; lạc giữa biển khói mây mù, vẫn có thể sáng lòng thấy được chân tính.
Hoa nở là hữu tình, hoa rơi là vô ý. Người đến là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Ba ngàn thế giới, mỗi một ngày đều sẽ có lướt qua, mỗi một ngày đều sẽ có trùng phùng. Tu Thiền không cần dốc lòng, rất nhiều người vì một mối tình duyên, cam tâm quay ngược lại con đường luân hồi, cho dù phải trải qua đợi chờ hàng ngàn năm, đổi lại chỉ được một cái quay đầu ngắn ngủi, cũng không oán không hận. Nhưng có lẽ chính trong khoảnh khắc quay đầu đó, trong thời gian năm tháng, bỗng nhiên đốn ngộ. Bất cứ chấp ngã nào cũng đều là phiền não, duy chỉ có từ bỏ, mới có thể tự tại.
Duyên phận giữa người và người, tuy có thuyết định mệnh, nhưng trong cuộc đời, có rất nhiều sự an bài hoàn toàn là ngoài ý muốn, chúng ta không cần vì một vài điều ngoài ý muốn mà cố giữ gió trăng. Tu Thiền cũng vậy, không cần dốc lòng, mà cốt quý ở tự nhiên. Vạn vật đều có Phật tính, tức là giữa một ngày rất đỗi bình thường, bạn làm thế nào để tìm được một phong cảnh thuộc về bản thân mình.
Những quá khứ đã trôi đi thật xa đó không phải là để quay đầu luyến tiếc, cũng không phải là để quên lãng, chỉ coi nó là sự tồn tại đơn giản, coi nó là dòng suối cần phải băng qua khi muốn lên bờ. Không để tâm ai đã từng tới, ai đã từng đi, lướt qua nhau tuy chỉ khoảnh khắc, dừng lại cũng chẳng thể một đời. Thế sự mênh mang, giấc mộng năm xưa đã sớm hoá thành vô số hoa rơi. Chúng ta không cần thiết đi nhặt lại ngày hôm qua đã mất.
Thuyền buông sông hồ, gặp sóng cả hồng trần, không cần sợ hãi. Chỉ cần không bị tình cảm và danh lợi trói buộc, bất cứ lúc nào cũng có thể rẽ nước mà xuôi, cưỡi gió mà chạy. Hồng trần như chuyến đi ngược chiều, chúng ta đều là người đi đường, là khách vãng lai. Từ điểm xuất phát của sinh mệnh, dọc đường lặn lội, nếm hết phong trần, trong hành lý mang trên vai đều là quá khứ nhiều năm. Mà đường về, cuối cùng nằm ở đâu? Người trong thế tục cho rằng bỏ hành lý trên vai xuống là tìm được về cố hương của đời mình. Nhưng người tu hành, chỉ cần tâm như tịnh thuỷ, là có thể ngộ đạo.
Chúng sinh quay về, cho dù gặp phải kiếp số ra sao, bất cứ cuộc du hành nhân gian nào đều sẽ đột ngột dừng lại. Ngày ấy, thế sự như nước rút đá bày, sóng xô phẳng lặng. Người đời đi khắp vạn nước ngàn non, những gió sớm ngày tan, hoa thắm liễu xanh đó, trở thành phong cảnh dù có quay người cũng khó quên. Mà Phật Đà chỉ cần ngồi thiền dưới gốc bồ đề, không dựa vào ngoại vật, là có thể nhận biết tự nhiên, thu được chứng ngộ.
“Kinh Kim Cương” viết: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ứng tác như thị quán.” (Tạm dịch: Tất cả pháp hữu vi. Như mộng, huyễn, bọt, bóng. Như sương, như điện chớp. Nên quán tưởng như thế) Đời người như giấc mộng, hết thảy phàm trần đều là hư ảnh. Dùng tâm bồ đề dung nạp mọi nỗi khổ của chúng sinh, vạn vật đều thuần tuý hoá thiện.
Thiền là mộc mạc, không cần trang sức mỹ lệ sinh động. Thiền cũng là tầm thường, không phải thần thoại xa xôi, huyền ảo. Thiền trong cuộc sống bình thường của chúng ta, trong mỗi khoảnh khắc của một cái lướt qua. Chỉ cần nội tâm sáng suốt bình hoà, mặc cho gió mây cuốn sạch, sao tàn mộng khuyết, cũng có thể hoa thắm trăng tròn. Châm một ly trà ngồi tĩnh lặng, thế sự non sông đều rơi trọn trong chén, khói lửa loạn thế đều trở thành thanh tịnh, tựa trăng sáng vằng vặc. Đây chính là cảnh giới của Thiền, là sen nở đẹp nhất ở bờ bên kia.
Có câu nói như thế này: “Kiếp sau, cho dù là yêu hay không yêu, đều sẽ không gặp lại.” Có những người thừa nhận câu nói này, cho nên học cách quý trọng nhân duyên. Cũng có người cho rằng tình yêu có sự qua lại, cho nên trên con đường tình cảm tiếp tục đi thật xa. Tình duyên trên thế gian trôi nổi bất định, đã từng tương phùng sâu sắc, đến phút cuối cùng chẳng qua lại chỉ là một khách đi bộ hành đi lướt qua nhau.
“Tâm kinh” viết: “Chư pháp không tướng. Bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.” (Tạm dịch: Các pháp không tướng, không sinh không diệt, không bẩn không sạch, không tăng không giảm) Tâm không uế chướng, tinh khiết thuần nhất. Trên con đường tu Phật, không cần nắm tay bên nhau, bất cứ khi nào đều có thể cùng làm bạn trăng thanh gió mát. Những con người đã từng đi lướt qua nhau trên con đường hồng trần đó, có một ngày cuối cùng đã gặp nhau, khi ấy, chỉ cần dùng một trái tim lương thiện bình thường đối đãi nhau là được rồi.
[24] “Kinh Viên Giác”, tên đầy đủ là “Đại Phương Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh”, còn gọi là “Đại Phương Quảng Viên Giác kinh”, “Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa kinh”, “Viên Giác Liễu Nghĩa kinh”, là một trong những kinh điển Phật giáo Đại Thừa.