Cái “hài” và cái “kì” là hai phạm trù mĩ học có nội hàm hoàn toàn khác nhau nhưng có tương quan gần gũi. Cái “kì” là những cái lạ, khác thường, bất ngờ của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và trong thế giới tinh thần của con người; còn cái “hài” là cái mâu thuẫn của đời sống “vốn có khả năng tạo nên tiếng cười ở nhiều cung bậc khác nhau”. Cái “kì” không nhất thiết bao hàm nội dung mâu thuẫn nhưng vì trạng thái mâu thuẫn lố bịch, gây cười là một biểu hiện khác thường của sự vật hiện tượng. Do đó trong nhiều trường hợp, cái “hài” xét ở một góc độ nào đó cũng có thể tồn tại như một biệt dạng của cái “kì”.
Trong Tây du kí, yếu tố “kì” có sự kết hợp nhuần nhị với yếu tố “hài”, tồn tại trên nhiều cấp độ mà biểu hiện rõ nhất, nổi bật nhất là tính hài hước. Đây là điểm khác biệt rất quan trọng giữa Tây du kí với những “đại kì thư” khác như Tam quốc, Thủy hử, Hồng lâu mộng; và với những truyện thần ma nổi tiếng khác như Phong thần diễn nghĩa, Liêu trai chí dị… Các nhà nghiên cứu xưa nay đều thống nhất khi nhận xét về đặc điểm nghệ thuật này của tác phẩm. Sau Tây du kí tự (Tựa bản in Tây du kí) của Trần Nguyên đời Minh đã gọi Tây du kí là “hoạt kê chi hùng” (sự hùng mạnh của hoạt kê). Lỗ Tấn nói “tác giả vốn giỏi hoạt kê”; Hồ Thích thì đánh giá “Tây du kí có một chỗ đặc biệt sở trường, chính là ý vị hoạt kê của nó”. Ý vị hoạt kê tràn đây trong câu chữ, nhân vật, tình tiết Tây du kí khiến người ta buồn cười và thú vị.
Khác với chuyện tôn giáo – nơi con người khuất phục trước sức mạnh thần linh, Tây du kí tuy nói chuyện nhà Phật nhưng lại gần thần thoại với tư cách là phương tiện lí giải xã hội chiến thắng thiên nhiên của con người. Lạc quan, dí dỏm và hài hước là đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật Tây du kí. Tác phẩm này mô tả toàn chuyện thần tiên yêu quái, nhưng không hề để lại cho người xem ấn tượng rùng rợn, kinh hoàng. Chính tính cách lạc quan, tự tin của nhân vật chủ yếu Tôn Ngộ Không đã quyết định khuynh hướng tác phẩm. Tác giả đã thông qua hành động đùa bỡn, ngôn ngữ hài hước của y để châm biếm, giễu cợt. Ví dụ: Vua nước Chu Tử thích thuốc trường sinh, Tôn Ngộ Không đã bốc cho những viên đan tẩm nước đái ngựa. Tôn còn trả lời vua nước Ô Kê “Lão Tôn này nếu chịu làm hoàng đế thì đã ở khắp thiên hạ vạn quốc thế này. Nếu làm vua, phải để tóc dài, mất ăn mất ngủ, nghe biên ải có giặc xâm lăng thì hoang mang sợ hãi, gặp năm đói kém thì lo lắng buồn phiền. Tôn này làm sao chịu nổi? Ông cứ làm vua đi còn tôi thì cứ làm hòa thượng của tôi vậy”. Đọc những đoạn như thế người ta thấy buồn cười và sau đó thấy việc tham sống cũng như tham quyền cố vị là lố bịch.
Khôi hài, dí dỏm là một nét đặc sắc quan trọng của phong cách Tây du kí. Trước hết, tác giả lấy khôi hài và dí dỏm làm đặc điểm nổi bật của nhân vật Tôn Ngộ Không để miêu tả, dùng nó để biểu hiện rõ nét hơn nữa, phong phú hơn nữa tính cách anh hùng của nhân vật này. Trước mọi khó khăn, Tôn Ngộ Không có một tinh thần lạc quan mạnh mẽ, không hề nản lòng thoái chí, đồng thời tin tưởng ở sức mạnh của mình, hết sức xem khinh kẻ thù. Y phơi trần tất cả những cái xấu xa của bọn yêu quái với những lời chế giễu chua cay, làm cho chúng bối rối hoang mang.
***Trích dẫn từ Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Văn học năm 2010:
“HÌNH TƯỢNG TÔN NGỘ KHÔNG TRONG TÂY DU KÍ CỦA NGÔ THỪA ÂN”
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thanh Diên
Sinh viên thực hiện : Đỗ Thái Hà
Trường: Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội