Điệu thức là cơ sở tổ chức mối tương quan về độ cao của âm thanh trong âm nhạc. Điệu thức cùng với những phương tiện diễn cảm khác tạo cho âm nhạc một tính chất nhất định, phù hợp với nội dung của nó. Mối tương quan về độ cao của âm thanh trong một ca khúc sẽ bao gồm những âm chủ (âm ổn định) và âm không ổn định. Những âm chủ sẽ liên quan chặt chẽ đến giọng của bài hát.
Giọng được hiểu là độ cao của âm thanh để sắp xếp điệu thức. Tên gọi của giọng là tên gọi của âm được coi là âm chủ. Tên gọi của giọng bao gồm kí hiệu của âm chủ và của điệu thức. Có hai loại điệu thức cơ bản trong sáng tác ca khúc là điệu thức trưởng và điệu thức thứ hay như ta vẫn thường gọi là bài hát này được viết ở giọng trưởng (ví dụ giọng sol trưởng của bài Tình ca Tây Bắc, giọng đô trưởng của bài Việt Nam quê hương tôi); bài hát kia được viết ở giọng thứ (giọng sol thứ của bài Tình ca, giọng la thứ của bài Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người).
Những ca khúc viết theo giọng trưởng thường gợi âm hưởng tươi trẻ, trong sáng, khỏe khoắn, lạc quan, nhịp đi từ vừa cho đến nhanh mạnh. Những ca khúc viết theo giọng thứ thường gợi những tình cảm trầm lắng, bâng khuâng, man mác, u buồn, nhịp đi từ vừa cho đến chậm.
Nhịp độ được hiểu là tốc độ của sự chuyển động. Trong ca khúc, nhịp độ với tư cách là một trong các phương tiện diễn cảm, phụ thuộc vào nội dung của tác phẩm âm nhạc. Nhịp độ được chia thành 3 nhóm cơ bản là chậm, vừa và nhanh. Người ta thường dùng các thuật ngữ gốc Italia để chỉ các loại nhịp độ.
Ví dụ:
Nhịp độ chậm:
Largo – Rộng rãi
Lento – Chậm rãi
Adagio – Chậm
Nhịp độ vừa:
Andante – Thanh thản, không vội vã
Andantino – Nhanh hơn Andante
Moderato – Vừa phải
Allegetto – Sinh động
Allegro Moderato – Nhanh vừa
Nhịp độ nhanh:
Allegro – Nhanh
Vivo – Nhanh
Vivace – Rất nhanh
Presto – Hối hả
Prestissimo – Rất nhanh
Ngoài ra còn có một số kí hiệu phụ để làm nổi bật sắc thái của nhịp độ:
Molto – Rất
Assai – Rất
Conmoto – Linh hoạt
Commodo – Thoải mái
Những kí hiệu trên về nhịp độ, trong ca khúc, người ta còn gọi đó là lời chỉ dẫn. Để cho âm nhạc nói chung và ca khúc nói riêng mang tính quần chúng hóa, các nhạc sĩ thường thay những thuật ngữ này bằng những chỉ dẫn tiếng Việt.
Giai điệu là sự nối tiếp các âm thanh thành một bè, có tổ chức về phương diện điệu thức và tiết nhịp tiết tấu. Giai điệu không diễn biến liên tục mà chia thành từng phần. Câu nhạc được sinh ra từ các phần của giai điệu, nó không trùng với câu văn theo quan niệm của ngữ pháp tiếng Việt.
Khi âm nhạc phát triển đến một trình độ nhất định, người ta nhất thiết phải tạo ra một hệ thống kí hiệu đặc biệt để ghi lại âm thanh. Hệ thống đặc biệt ấy chính là các nốt nhạc. Nốt nhạc là một hình tròn rỗng ruột hoặc đặc ruột.
Để xác định độ cao của âm thanh, các nốt được phân bố trên khuông nhạc gồm 5 dòng kẻ song song. Bảy nốt nhạc chính được kí hiệu ở các vị trí như sau:
Để xác định trường độ khác nhau của các âm thanh, người ta thêm vào các nốt hình tròn những vạch thẳng đứng, những vạch ngang gộp các trường độ nhỏ thành nhóm. Tình hình cụ thể như sau:
Trường độ lớn nhất – nốt tròn:
Trường độ bằng ½ nốt tròn – nốt trắng:
Trường độ bằng ½ nốt trắng – nốt đen:
Trường độ bằng ½ nốt đen – nốt móc đơn:
Trường độ bằng ½ nốt móc đơn – móc kép:
Trường độ bằng ½ nốt móc kép – móc ba:
Trong ca khúc nói chung, chỉ sử dụng đến nốt móc kép là điều thường thấy. Các trường hợp ngắn hơn móc kép ít được sử dụng.
Người ta còn có thể có những dấu hiệu bổ sung vào nốt nhạc để tăng thêm trường độ:
Dấu chấm (.) tăng thêm một nửa độ dài sẵn có, ghi ở bên phải nốt nhạc:
Dấu hai chấm (..) tăng thêm một nửa và một phần tư độ dài sẵn có, cũng ghi bên phải nốt nhạc:
Dấu liên kết hình vòng cung nối liền độ dài của các nốt cùng cao độ nằm cạnh nhau:
Dấu miễn nhịp có giá trị tăng độ dài của nốt không hạn định. Dấu miễn nhịp có hình nửa vòng tròn nhỏ với một chấm ở giữa:
Khóa là tên gọi của kí hiệu dùng để xác định một độ cao nhất định cho các âm thanh nằm trên dòng và khe.
Khóa đặt ở đầu khuông nhạc, trên một trong những dòng kẻ chính, sao cho dòng kẻ đó chạy qua trung tâm nó.
Khóa qui định cho nốt nhạc viết trên dòng đó một độ cao của một âm thanh nhất định và từ đó xác định vị trí của các nốt khác trên khuông nhạc.
Hiện nay người ta dùng 3 loại khóa khác nhau là khóa sol, khóa fa và khóa đô. Trong phạm vi đối tượng của luận văn là ca khúc, chúng tôi chỉ giới thiệu khóa Sol:
Việc nâng cao hoặc hạ thấp cao độ của các nốt trong bản nhạc gọi là sự hóa. Thực hiện sự hóa phải dùng dấu hóa. Trong ca khúc Việt Nam, các dấu hóa chủ yếu gồm:
Các dấu hóa được đặt bên cạnh khóa gọi là dấu hóa theo khóa, còn khi đặt cạnh nốt nhạc là dấu hóa bất thường. Các dấu hóa theo khóa có hiệu lực trong suốt tác phẩm âm nhạc. Các dấu hóa bất thường chỉ có hiệu lực trong một ô nhịp và chỉ đối với âm thanh đứng sau nó.
Dấu hóa theo khóa
Dấu hóa bất thường
***Trích dẫn từ Luận văn Thạc Sĩ Khoa học Ngữ văn năm 2012:
"ĐẶC ĐIỂM TIẾNG VIỆT THỂ HIỆN TRONG PHẦN LỜI CA CỦA CA KHÚC TRỮ TÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975"
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Tất Thắng - TS. Đỗ Anh Vũ
Học viên Cao học : Đỗ Thái Hà
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học - Trường: Đại học Sư phạm Hà Nội