Như đã trình bày ở phần đầu luận văn, có 3 loại nhịp chủ đạo trong sáng tác ca khúc là nhịp điệu chậm, nhịp điệu vừa và nhịp điệu nhanh. Trong số lượng 128 ca khúc trữ tình cách mạng mà chúng tôi khảo sát đều cho thấy nhịp điệu được lựa chọn là vừa hoặc nhanh, không có nhịp điệu chậm. Điều này rất phù hợp với tinh thần con người trong thời chiến: có thể chấp nhận sự du dương tha thiết nhưng cũng phải hết sức gấp gáp, sôi nổi, khẩn trương, kịp thời. Nhịp điệu chậm chỉ phù hợp với những ca khúc mang âm hưởng buồn bã, chán nản, vô vọng, phù hợp với không khí của âm nhạc lãng mạn thời kì trước 1945. Vì thế, ta rất dễ bắt gặp những ca khúc mang nhịp điệu chậm điển hình cho âm nhạc lãng mạn thời kì trước 1945 như Đêm đông (Nguyễn Văn Thương), Giọt mưa thu, Con thuyền không bến (Đặng Thế Phong), Tà áo xanh (Đoàn Chuẩn – Từ Linh), nhưng không thể tìm thấy những ca khúc ở thời kì 1954 – 1975 có nhịp điệu chậm tương tự những ca khúc kể trên.
Ngược lại, có thể tìm thấy ở dòng nhạc cách mạng 1954 – 1975 nhiều ca khúc có nhịp điệu từ nhanh đến rất nhanh như: Chiếc gậy Trường Sơn (Phạm Tuyên), Bài ca Trường Sơn (Trần Chung), Lá xanh (Hoàng Việt), Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (Nhạc: Hoàng Hiệp; Thơ: Phạm Tiến Duật), Cùng hành quân giữa mùa xuân (Cầm La), Chào em cô gái Lam Hồng (Ánh Dương), Tiếng đàn Ta lư (Huy Thục), Rừng xanh vang tiếng Ta lư (Phương Nam)… Những ca khúc với nhịp điệu và tinh thần như thế này lại rất khó có thể tìm thấy trong dòng nhạc lãng mạn trước 1945.
Những ca khúc có nhịp điệu “chậm” hơn cả trong dòng nhạc trữ tình cách mạng 1954 – 1975 như Tình ca (Hoàng Việt), Mẹ yêu con (Nguyễn Văn Tý), Bài ca hy vọng (Văn Ký) thì đều có sắc thái trong sáng, giai điệu mượt mà du dương bay bổng, ca từ đẹp, giàu hình ảnh, không khí chiến tranh xuất hiện một cách gián tiếp. Sự lựa chọn nhịp điệu cho những ca khúc trữ tình theo phong cách trên như vậy vẫn rất phù hợp.
Bên cạnh đó, có những ca khúc với sự thay đổi về nhịp điệu, tạo ra một hình thức biểu hiện phong phú, một bản lĩnh nghệ thuật cao tay. Điển hình là trường hợp ca khúc Xa khơi (Nguyễn Tài Tuệ). Ca khúc chia làm 3 đoạn nhịp điệu khác nhau. Đoạn đầu có nhịp điệu vừa, kết hợp cùng ca từ tạo cảm giác nhớ thương, xa vắng, man mác, bâng khuâng; được đẩy cao lên điểm tha thiết thì bước vào đoạn nhịp điệu rất nhanh; sau đó chậm dần để đi về đoạn nhịp điệu thứ ba kết thúc tác phẩm. Tình ca Tây Bắc (Nhạc: Bùi Đức Hạnh; Thơ: Cầm Giang) cũng là một ca khúc khác có biểu hiện phong phú về nhịp điệu. Nhịp điệu đi từ vừa đến nhanh và câu cuối kết thúc ở nhịp vừa.
***Trích dẫn từ Luận văn Thạc Sĩ Khoa học Ngữ văn năm 2012:
"ĐẶC ĐIỂM TIẾNG VIỆT THỂ HIỆN TRONG PHẦN LỜI CA CỦA CA KHÚC TRỮ TÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975"
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Tất Thắng - TS. Đỗ Anh Vũ
Học viên Cao học : Đỗ Thái Hà
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học - Trường: Đại học Sư phạm Hà Nội