Sau này mới biết, trong lòng chúng sinh, trà có mùi vị khác nhau. Thứ trà mới dùng nước tinh khiết đun sôi trong bình đó, uống xong, có người cảm thấy đắng như sinh mệnh, cũng có người thấy nhạt như gió lành.
Trà có đậm có nhạt, có nóng có lạnh, có buồn cũng có vui. Dùng một trái tim trần tục để thưởng trà, khó tránh khỏi chỉ chăm chăm vào sắc, hương, vị, mà thiếu đi một phần thanh đạm và chất phác. Trà có ngàn vạn vị, thậm chí hoà lẫn với thế sự và cảm tình. Dùng một trái tim siêu thoát để thưởng trà, thì có thể ung dung tận hưởng sự tĩnh lặng tuyệt mỹ của mây bay ngang trời, của nước biếc không gợn sóng.
Trà, bắt nguồn từ tự nhiên, trải tinh hoa năm tháng, tắm thử thách xuân thu, từ đó mà có linh tính như phách hồn non nước. Trà có thể dùng để gột bỏ bụi trần, gạn lọc tâm tình, kết nối thiện duyên. Cho nên, người biết cách thưởng trà, cũng là một người tình nguyện để bản thân sống một cách giản đơn và thuần khiết. Hãy tin rằng, thiền là một cảnh ý, có những người dùng cả đời cũng không thể rũ bỏ chấp niệm, ngộ được bồ đề. Mà có những người chỉ dùng thời khắc của một ly trà, cũng có thể bước ra từ vạn điều hỗn tạp, trở nên tinh khiết như hoa sen.
Đời người có bảy nỗi khổ[1], chúng sinh lưu lạc trong nhân gian, nếm hết mọi đắng cay, đổi lấy vị ngọt ngào. Phồn hoa ba ngàn, nhưng cuối cùng đậu lại trần ai, giống như màn đêm trút bỏ lớp trang sức của ban ngày, trầm tĩnh mà yên ắng. Thời gian trôi qua như một cái búng tay, năm nào còn quan tâm được mất, tính toán bại thành, giờ đều đã thành khói mây qua mắt. Bất cứ khi nào, bờ bên kia đều chỉ cách một bước chân, lạc lối biết quay lại, trời sẽ quang đất lại rộng dưới chân mình.
“Tâm kinh[2]” viết: “Vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng. Nhất thiết tuỳ duyên, nhất sinh tuỳ duyên, phương đắc tự tại.” (Tâm không uế chướng, nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm. Tất cả tuỳ duyên, một đời tuỳ duyên, mới được tự tại). Một người ngoan cố níu giữ cả đời không buông, không thích hợp tu hành. Một người si mê nhân quả, cũng không thích hợp tu hành. Trà có Phật tính, giống như mây in bóng nước, vài chén trôi xuống ruột, đầu óc liền thảnh thơi. Cho nên người ta tu hành thường thích cả ngày chìm đắm trong trà, vứt bỏ tạp niệm, chứng ngộ tâm bồ đề. Trời đất mênh mông, chúng ta như cọng cỏ. Không khiến bản thân kinh động thế giới, cũng không để thế giới kinh động bản thân. Khi con người chào đời, vốn chẳng có hành lý, cứ đi thêm một đoạn đường, lại mang thêm một tay nải. Mà chúng ta gói ghém thế tục thế nào, để có thể chuyển thành hành lý Thiền? Chỉ có dùng một trái tim thanh tịnh, nhìn ngàn vạn thế thái nhân tình, mới có thể xoá bỏ định kiến, vui vẻ an nhiên.
Trà có bốn đức, từ bi hỉ xả. Cái gọi là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”, tức là trong một ly trà trong, thưởng được chân ý có sinh ắt có tử, có tụ ắt có tán, có tươi ắt có héo. Nên biết trong bi thương sẽ có hạnh phúc, trong mất ắt có được. Một người từ bi với chính mình, mới có thể từ bi với vạn vật.
Thời gian như nước, phẳng lặng là tươi đẹp. Ngày tháng như sen, bình dị là tao nhã. Thưởng trà cũng là tu Thiền, cho dù là hồng trần huyên náo hay núi non tĩnh lặng, đều có thể trở thành đạo tràng tu hành. Đánh đuổi phiền nhiễu, không bi quan, không trốn tránh, đó là một cách sống giản đơn. Tự tại an nhiên, cho dù là một trái tim chật hẹp, cũng có thể chuyên chở vạn vật khởi diệt[3].
Tất cả tình duyên trên thế gian đều có số kiếp cả. Kẻ có tình chưa chắc có duyên, kẻ có duyên chưa chắc có tình. Tuỳ duyên là an, có thể ngộ đạo. Nước trà rửa tâm, tâm như gương sáng, một người chỉ cần nhìn rõ bản thân là có thể nhận biết thế giới vô thường. Khi ý loạn tình mê, đừng để đến lúc hoảng loạn. Tĩnh tâm ngồi Thiền, ngày mai sẽ như hẹn mà đến. Hoa xuân vẫn đẹp như xưa, trăng thu vẫn tròn như thế.
“Kinh Kim Cương[4]” viết: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.” (Tâm quá khứ không thể có, tâm hiện tại không thể có, tâm tương lai cũng không thể có). Chúng ta không nên vì một bi kịch định mệnh mà lựa chọn đau thương, nhưng cũng không thể vì sự việc viên mãn của tương lai mà bỏ việc tu hành. Thưởng trà, là để tu tâm, hiểu thấu thiền ý trong tịnh thuỷ không bụi trần để chúng ta không bị mê hoặc, tránh khỏi sự trôi dạt vô nghĩa kia, kịp thời đến bến bờ thanh tịnh.
Thưởng trà có thể khiến người ta tha thứ lỗi lầm, có được sự thanh thản trong mỗi ly trà. Đời người thực sự hoàn mỹ khi chừa lại khoảng trống, khoảng trống tức là “không minh” mà Phật gia nhắc tới. Nhân gian là một sân khấu thể hiện cái tôi tốt nhất, nếu như có một ngày kịch đến hồi kết, một khi đã siêu thoát, hãy buông bỏ tất cả, đừng như bị đẩy vào ngõ cụt. Phải tin rằng, khi không có lựa chọn khác, sẽ có lựa chọn tốt nhất.
Vô pháp vô thường, duyên khởi tính không. Vạn vật vì duyên hoà hợp mà sinh, cũng vì duyên mà diệt. “Văn vân thu[5]” tức là lúc chim mỏi cánh quay về tổ. Phật nói bể khổ vô biên, quay đầu là bờ, mỗi một lần trở lại đều là quay đầu, mỗi một lần qua sông đều là chèo thuyền. Cho dù con đường phía trước có bao xa, xoá bỏ ngã chấp, sau đó ăn gió uống sương, biển trời mênh mông, đều là chốn về.
Nước lặng chảy sâu, người đơn giản nội tâm thanh thản, càng dễ dàng thẩm thấu Thiền lý. Tu Phật cũng như thưởng trà, uống một ly trà từ đắng đến không có vị, đó là cảnh giới của Thiền. Đời người cũng nên bỏ phức tạp lấy giản đơn, nương theo thế sự, tâm trước sau như sen, yên tĩnh hé nở, lại giống như ngàn vạn khe suối, cuối cùng đều đổ về một dòng sông, róc rách trong vắt, giản dị yên bình.
Uống trà, cần một trái tim thanh đạm. Cho dù ở chốn phố chợ ngựa xe sầm uất cũng có thể cảm nhận được sự thanh nhã của gió xuân lướt qua tai, của nước thu gột bụi trần, của mây trôi ngoài cửa, của chim bay qua thềm. Hương khói xoay vòng, như có như không, giải nghĩa nhân sinh như hư như thực. Trên bàn, một chiếc mõ gỗ, vài quyển kinh thư nằm yên, còn có tràng hạt vương vãi, dưới ánh trăng nhàn nhạt, xa cách lạnh lẽo.
Mây gió thế gian biến ảo khôn lường. Phật gia chú trọng nhân quả luân hồi, cho dù là vật chuyển sao dời, cũng có một ngày đều khói tản mây tan, trở về cát bụi. Như trà, chất chứa linh hồn của vạn vật, rót vào trong chén, trước sau một sắc, trong vắt thấu tỏ.
Siêu thoát không cần dũng khí và quyết tâm, mà cần thiện ý và thanh tĩnh. Ngày ngày những dòng chảy hối hả, vinh nhục phàm trần mà chúng ta nhìn thấy, kỳ thực đều chỉ là một vở kịch. Một nhà tu hành chỉ có đủ thiền định mới có thể bước ra khỏi con đường nhân sinh tù túng, ngắm mây tụ đồng xanh, nhạn đậu cát bằng.
Phật nói, buông bỏ chính là đạt được, tàn khuyết chính là viên mãn. Chúng ta thường dùng vô số thời gian mà vẫn không thể thuộc được kinh văn, đến khi ngộ đạo, lại có thể đọc lướt không quên. Rất nhiều người cho rằng Thiền tinh thâm uyên bác, kỳ thực nó tồn tại trong thời gian một lần đọc, trong mỗi ngày đi qua, trong mỗi giọt nước, trong mỗi đoá hoa, trong thế giới Ta Bà[6].
Thời gian lãng đãng, mây nước ngàn năm. Trà thành thói quen trong cuộc sống, thành một tri âm không thể thiếu của người tu hành, chỉ là bao nhiêu người có thể đem năm tháng sôi sục bất an, uống đến mức nước lặng không gợn sóng? Bao nhiêu người có thể đem thế tục vẩn đục u minh, uống đến trong vắt tinh khiết? Có lẽ chúng ta có thể lựa chọn một ngày bất kỳ, cho dù mưa nắng, không quản xuân thu, uống hết một bình thiền trà nhân sinh, quay về bản ngã, tìm lại chính mình thuở ban đầu.
Có lẽ sẽ có một ngày nào đó, tôi sẽ uống cạn một ly trà cuối cùng của hồng trần, rời bỏ ba ngàn thế giới, đổi lấy một đời bình an. Là lạc lối quay lại hay thiền định ngộ đạo cũng không quan trọng. Sau đó, núi lạnh đường mòn, cưỡi ngựa trắng mà đi, uống hết nước ngàn sông, thưởng Thiền trà ngắm mây gió nhẹ bay.
----------------------------------------------------
[1] Bảy nỗi khổ của đời người theo quan niệm của nhà Phật là: Sinh, lão, bệnh, tử, oán hận mà phải ở cạnh nhau, yêu nhau mà phải ly biệt, cầu mà không được.
[2] “Tâm kinh” tên đầy đủ là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh” hay còn gọi là “Bát Nhã Tâm kinh”, đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại Thừa và Thiền tông.
[3] Khởi diệt: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ nhân duyên hoà hợp mà sinh ra, và vì duyên hết mà tiêu diệt.
[5] Văn vân thu: Mây chiều ngưng lại.
[6] Thế giới Ta Bà: Theo kinh điển Phật giáo thì các loài chúng sinh hữu tình hiện sinh luân hồi trong thế giới Ta Bà (Sa Bà, Samsara) hay còn gọi là Tam Giới: Cõi dục giới, Cõi sắc giới và Cõi vô sắc giới.
"Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên"