Thứ năm, 21/11/2024 - 16:34

Mỗi bông hoa, mỗi chiếc lá đều liên quan đến Thiền

Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nào? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên háo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.

       Cược sách pha trà, tựa lầu nghe mưa. Tháng ngày của Thiền luôn tĩnh lặng vô thanh như thế. Bên ngoài khung cửa gió chuyển mây vần, ngựa xe như nước, nội tâm lại an nhiên bình hoà, thanh khiết hư không. Đạm bạc như thế, không phải là xa cách trần thế, mà là giữa trần thế vẫn khiến bản thân thanh thản. Nhân sinh chính là một cuốn sách, chân lý được cất giấu trong mỗi sự việc bình thường. Trở về trạng thái ban đầu, tuỳ duyên mà an.


       Hoa mai năm đó, không biết đã rụng dưới sân tường nhà ai, gạch xanh ngả màu, ngói đen đẫm ướt. Không biết từ khi nào, những người theo đuổi giấc mộng tuổi xuân, bắt đầu cuộc sống chỉ cần một ấm trà, một quyển sách. Thời gian vẫn trôi như cũ, chỉ là người đi trong thời gian ấy, chần chừ không chịu sải bước. Những thế sự biến động chẳng yên đó, đã hoá thành nước trôi khói nhạt. Ngày hôm qua của trăng gió tình hoài, cũng chỉ là hào sảng trong giây lát.


       Trái tim của mỗi con người đều là một khung cửa sổ nho nhỏ, đóng lại là mây nước Thiền Tâm. Có người có dũng khí thề nguyền cùng sinh cùng tử với hồng trần, có người lại quyết tĩnh toạ Thiền tâm không oán hận. Đi khắp vạn dặm non sông, bỗng nhiên quay đầu, chuyện ân thù hoan lạc trong giang hồ đã thành nhẹ như mây trôi gió thoảng.

       Đã biết như thế, lại tranh giành thắng thua với thời gian một cách vô ích. Làm một người chất phác giản đơn, để cho tâm sáng thấu triệt. Phật nói: “Chớ làm điều ác, hãy làm điều lành, giữ tâm trong sạch, đây là lời chư Phật dạy.” Nhìn thì đơn giản, nhưng để làm một người lương thiện, một người thuần khiết, lại chính là tu vi lớn nhất của đời này. Bước đi trong hồng trần cuồn cuộn sóng gió, có được mấy người đạt cảnh giới tột cùng như thế?
       Thanh tịnh tâm ý, là Thiền ý cao thâm nhất. Sở dĩ phiền não của chúng sinh không dứt, là vì tâm bị phù vân vọng niệm che khuất, không thể sáng rõ. Làm thế nào để quét sạch trần ai, để tâm tinh khiết như hoa lê trong tuyết, sáng rõ như trăng tỏ giữa trời quang, thì lại phụ thuộc vào tu vi, vào mầm thiện trong mỗi người. Có lúc, chỉ một sát na
[7], vọng niệm tiêu tan, giác ngộ thành Phật.
       “Hán thư
[8]” viết: “Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá sẽ chẳng có bạn bè.” Cái gọi là “vật cực tất phản”, mạnh mẽ quá sẽ chuốc nhục, cũng là như thế. Ngọc đẹp vẫn còn có vết, người há lại có kẻ hoàn mỹ sao? Chỉ cần lòng độ lượng bao dung, lòng kiên nhẫn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp. Nhưng trên thế gian này có một dòng sông mang tên Thiền, cho dù qua bao nhiêu năm tháng, trước sau vẫn trong vắt đến mức nhìn thấy đáy, mà chúng sinh lại như tảng đá bắc qua sông, có thể yên ổn dưới lòng nước.
       Hoan lạc chốn nhân gian như giấc mộng không dấu vết. Vì đã mệt mỏi vãng lai giữa phàm trần, cho nên càng nhiều người nguyện làm một loài cây bình thường, cho dù nhỏ nhoi, nhưng lại được sống cuộc sống giản đơn, chất phác hơn loài người. Chỉ muốn yên ổn, tĩnh lặng cho qua ngày, không để tâm đến duyên kiếp khi xưa hay quả báo sau này. Trong con mắt của Phật, một ngọn cỏ, một nhành cây đều có tình, một bông hoa, một phiến lá hết thảy đều liên quan đến Thiền niệm. Những nơi Phật đã đi qua, cho dù là nơi sơn cùng thuỷ tận, cỏ cây tuyệt diệt, nhưng vì có sự hiện diện của Phật mà đều có Thiền ý, đều có từ bi.


       Có người hỏi, chặng đường tu Phật rốt cuộc xa đến nhường nào? Cần tiêu phí bao nhiêu thời gian? Phật Đà tu hành hằng trăm hằng nghìn năm, trải qua ngàn vạn kiếp số, ở bờ bên kia Phật quốc, vì chúng sinh trồng hoa sen khắp nơi. Mà chúng ta chỉ vì muốn rũ bỏ nghiệp chướng, sân si, tìm một con thuyền vượt sông, để có thể lên bờ. Phật độ người hữu duyên, quá trình này, có lẽ là một sát na, cũng có thể là cả một đời. Con thuyền vượt sông đó là gì? Là một con nhện trước thềm điện Phật, là một làn gió thơm ở hành lang tự viên, là một ngọn rong trên ao phóng sinh, hoặc là một hạt bụi thấp thoáng lưng trời.
       Phật nói: “Nguyện giải thoát vô số chúng sinh, nguyện đoạn tuyệt vô số phiền não, nguyện tu học Phật pháp nhiều vô lượng, nguyện chứng đắc bồ đề vô thượng
[9].” Con mắt thanh tịnh nhìn thấu cõi đời, gió cuộn mây vần, cá rồng lẫn lộn, duy chỉ có tâm linh là mảnh đất lành. Tâm yên sẽ không bị thế sự làm kinh hãi, quấy rầy. Phật để chúng sinh sống tạm nơi hồng trần mênh mang, hồng trần tức là đạo tràng, ở đây, chúng ta phải học được cách gặp sao vui vậy. Mù quáng chạy trốn sẽ chỉ đẩy chúng ta rơi vào cảnh khốn cùng hơn nữa mà thôi. Tâm loạn, dù mặc sức đi trên con đường lớn, cũng chỉ như đang đi giữa nơi chật hẹp bí bách. Tâm an, cho dù là nhà cũ giếng cạn, cũng vẫn như bay giữa trời cao vời vợi.


       Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nào? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên háo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.

 


       Thiền tông thời Tống chia tu hành thành ba cảnh giới. Cảnh giới thứ nhất là “Lạc diệp mãn không sơn, hà xứ tầm phương tích” (Lá rụng đầy núi vắng, nơi nào tìm dấu thơm); cảnh giới thứ hai là “Không sơn vô nhân, thuý lưu hoa khai” (Núi trống không người, nước trôi hoa nở); cảnh giới thứ ba là “Vạn cổ trường không, nhất triều phong nguyệt” (vạn năm đằng đẵng, trăng gió mau trôi). Có lẽ chúng ta không cần hiểu thâm ý bên trong, chỉ biết cho dù thời gian có trôi qua bao lâu, Phật pháp sẽ trường tồn cùng trời đất. Chúng ta chỉ là một sinh linh thuộc về chính mình giữa vũ trụ vạn vật, yên tĩnh sinh trưởng, bình an qua ngày. Còn tu hành, thì trong những tháng ngày luân chuyển xuân hạ thu đông, tự khắc sẽ nhận được quả báo.
       Ngọc thô tự nhiên cần được thời gian mài giũa. Đời người hoa lệ, cần Thiền tâm nuôi dưỡng. Hãy đem hoà tấu rộn ràng gửi vào tiếng trúc tiếng tơ; dùng khói lửa phàm trần đổi lấy một chén băng tâm trong bình ngọc. Tại thế gian vô thường, đối diện với ngày mai không thể đoán định, những gì ngày hôm nay có thể làm được, chính là tĩnh tâm ngồi Thiền, nuôi dưỡng tính tình. Để bản thân từ từ bước ra khỏi trần ai loạn thế, trở nên trong sạch tinh khôi.

       “Lục Tố đàn kinh[10]” viết: “Hết thảy chúng sinh, hết thảy cây cỏ, có tình vô tình, đều là tối tăm, trăm sông cùng chảy, đổ về biển lớn, hợp thành một thể.” Trên đá tam sinh có khắc ghi nhân quả, mỗi nhành hoa mỗi phiến lá đều liên quan đến Thiền. Chúng ta không cầu trăng sáng trong tay, không cầu hoa thơm đẫm áo, chỉ nguyện năm tháng giản đơn hạnh phúc, bình lặng thanh tịnh. Sẽ có một ngày, Phật duyên tới, ấy chính là đích đến.

 

---------------------------------------------------

[7] Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày hai mươi tư giờ được tính bằng sáu ngán bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
[8] “Hán thư”: còn gọi là “Tiền Hán thư”, do sứ gia thời Đông Hán là Ban Cổ biên soạn, là bộ sử đoạn đại thế kỳ truyện đầu tiên của Trung Quốc, một trong “nhị thập tứ sử”.
[9] Là bốn câu “Tứ hoằng thệ nguyện độ” – bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo thuộc về các tông phái Đại thừa, tuy nhiên ở phiên bản này có sự khác biệt ở câu thứ tư, là “Bồ đề vô thượng thệ nguyện chứng” thay vì “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” như thường thấy.

[10] “Lục Tố đàn kinh”: Tên đầy đủ là “Lục Tổ đại sư pháp bảo đản kinh”, hay còn gọi là “Pháp bảo đàn kinh”, “Đàn kinh”, do Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng vào đời Đường, đệ tử là Pháp Hải sưu tầm chép lại, ngài Tông Bảo hiệu đính và ấn hành vào đời Nguyên, được xếp vào “Đại Chính Tạng”, tập 48.

 

"Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên"


Tác giả: Bạch Lạc Mai
Nguồn: Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên

Bài viết liên quan
Nội dung đang được cập nhật.
Người là cuộc tu hành đẹp nhất kiếp này của tôi
Người là cuộc tu hành đẹp nhất kiếp này của tôi
Chẳng cầu trong những năm tháng đẹp nhất gặp được người tốt nhất, chỉ nguyện những năm còn sống được tương phùng, lựa chọn một tòa thành sống với nhau đến già. ...
Tiếng dương cầm vọng mãi
Tiếng dương cầm vọng mãi
Chẳng ngôn ngữ nào êm dịu và trầm lắng cho bằng ngôn ngữ của thi ca Chẳng âm điệu nào thiết tha cho bằng cung thanh trầm của khúc nhạc... Tôi có một tình yêu lớ...
Nắng ấm quê hương
Nắng ấm quê hương
Quê hương là gì hở cha?Ai đi xa cũng nhớ nhiều... Phải thừa nhận rằng từ trước giờ, con chưa bao giờ nghĩ đến khái niệm Quê hương. Và cũng chưa một lần, con tự ...
THÀNH NGỮ TRUNG HOA

THÀNH NGỮ TRUNG HOA

Ngọc bất trác, bất thành khí  Nhân bất học bất tri lý Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ Vô duyên ...
Status 129 trên Nhân Văn Blog

Status 129 trên Nhân Văn Blog

Âm nhạc luôn luôn là nguồn hạnh phúc cho tất cả mọi người sống trên trái đất. Không có âm nhạc thế ...
43 câu nói ý nghĩa

43 câu nói ý nghĩa

1. Bộc lộ sự nóng nảy ra ngoài, đó gọi là bản năng. Kìm nén sự nóng nảy vào bên trong, đó gọi là ...
Như một người cha

Như một người cha

Trong cuộc đời mỗi chúng ta, luôn có những người đã dạy ta một điều gì đó khiến cuộc đời ta thay ...
Người tuổi Dần

Người tuổi Dần

Trời sinh người tuổi Dần rất nhạy cảm, và có giác quan thứ sáu, có khả năng nhìn thấu nội tâm của ...

"Nhân sinh nhược chích như sơ kiến....
Nếu cuối cùng mọi thứ đều phải tan biến, chỉ xin được giữ lại ánh nhìn buổi ban sơ..."

Bụng chứa thi thư, 

phong thái tự đẹp!

Hữu xạ tự nhiên hương

Ngọc bất trác, bất thành khí 

Nhân bất học bất tri lý

Nhất tự thiên kim

Thiên ngôn vạn ngữ

Tri nhân tri diện bất tri tâm

Video clip