Cho dù là người đã từng hay chưa từng đến Tây Đường đều sẽ cảm thấy, Tây Đường là một giấc mộng, một giấc mộng thuộc về Giang Nam. Nó nên thơ cổ kính, thuần phác tĩnh lặng, đã từng bị người đời quên lãng, đến nay lại được người ta tìm kiếm. Tôi luôn cho rằng những người đến Tây Đường là những người không từ bỏ được quá khứ hữu tình. Bởi vì mỗi phong cảnh nơi đây đều có thể dễ dàng, nhẹ nhàng lay động sự mềm yếu trong bạn. Giữa phong cảnh sự vật yên tĩnh của Tây Đường, có thể mơ một giấc mơ dài, khi tỉnh lại, cũng sẽ có những tháng ngày không lưu giữ được.
Trước khi đến Tây Đường, tôi cũng chỉ là một khách bộ hành ngẫu nhiên, mà không biết rằng từ ngàn năm trước đó, mình đã từng có duyên phận với nó. Thời Xuân Thu, Ngũ Tử Tư của nước Ngô đã khơi thông thủy lợi, vận hành chuyển muối, khai vét Ngũ Tử đường, dẫn nước từ phía Bắc núi Tư chảy về trong vùng, vì thế từ đó Tây Đường cũng được gọi là Tư Đường. Cũng chính là một chữ “Tư” này, khiến tôi cho rằng, mình và Tây Đường có nhân quả định mệnh[1]. Cho dù chỉ là cảm xúc đơn phương, nhưng vì trong lòng chất chứa cảm xúc này, nên trước mỗi cảnh mỗi vật ở Tây Đường, tôi đều không kìm được xiết bao lưu luyến.
Tháng năm yên tĩnh, khe khẽ dập dềnh giữa sóng nước. Dưới ngói xanh tường xám, dường như chớp mắt đã có thể nhìn thấy lịch sử xa xăm của Tây Đường. Thực ra Tây Đường không có một chiều dài lịch sử lớn lao thâm trầm, cũng không có nhiều nhân vật hô mưa gọi gió. Năm tháng cũng như dòng sông nơi đây, cứ từ từ chảy miết, không có sóng to gió lớn hãi hùng, chỉ bình dị yên ổn. Tòa cổ trấn ngàn năm này, từ khi bắt đầu đã có dáng vẻ cổ kính, đơn sơ như thế. Ung dung bước qua bốn mùa thay đổi, ung dung nhìn hợp hợp tan tan của đời người, cũng ung dung tiếp nhận những khách qua đường vãng lai và những tình cảm khác nhau mà họ đem tới.
Tây Đường ven sông, tựa như luôn có một làn sương mỏng như lụa bao bọc, chỉ cần như vậy đã có thể làm nổi bật được phong vận của miền sông nước Giang Nam. Nước chảy reo ca, khỏa chèo nhẩm hát, những nhà dân cổ kính hai bên bờ là cảnh tượng nguyên sơ mà chân thực của tiểu trấn. Biết bao năm, con người nơi đây cũng đã kinh qua bao lần đổi thay, chỉ là lại thêm một lần luân hồi, chứ không thể làm thay đổi ký ức xanh thẳm đó. Dưới bầu trời bao la, không nhìn thấy được lầu cao thành thị, chỉ có những ngôi nhà cũ điểm tô năm qua năm tới kể lại những câu chuyện na ná như nhau.
Lầu gỗ đơn sơ có mấy cánh cửa trên mái hiên đang hé mở, khiến tôi quên hết mệt mỏi của chuyến đi, thậm chí còn tự tưởng tượng rằng, có một cánh cửa đã mở vì mình, có một người đang đợi mình. Mà tôi không biết phong cảnh Tây Đường xưa nay không dễ dàng bị người ta làm kinh động. Đây là miền sông nước trong mộng của rất nhiều người, bạn có thể cảm nhận được hơi thở của nó từ rất xa, nhưng chẳng mấy người có thể lưu lại mãi mãi. Chỉ là có được trong khoảnh khắc, để đổi lấy nhớ nhung một đời, Tây Đường cũng không phụ lòng bất cứ người nào đi ngang qua cuộc đời nó.
Những người đã từng đến Tây Đường nhất định sẽ không quên hành lang nghìn mét dài hun hút đó. Ở Giang Nam, những hành lang ven nước này đâu đâu cũng thấy, nhưng chỉ có hành lang ở Tây Đường mới khiến bạn cả đời khó quên. Bởi vì độ dài ấy như thể đi đến tận kiếp sau mới hết. Bạn có thể thoải mái mơ một giấc mơ ở nơi này, không cần lo lắng bị bất cứ cảnh tượng hiện thực nào đánh thức. Chỉ lắng lòng cảm nhận ngọn gió đang quét qua hành lang dài, lướt qua làm đáy lòng se se lạnh, mà bức tranh Giang Nam, câu chuyện đời người, cứ thế từ từ mở ra.
Có người nói với tôi, con phố dài dằng dặc này có những ngọn nguồn tươi đẹp. Mà tôi lại không muốn biết căn nguyên của những chuyện xưa đó, chỉ muốn bình an có được cuộc gặp gỡ này – cuộc gặp gỡ với Tây Đường trên hành lang sinh mệnh. Sau khi quay người, dù nó sẽ lãng quên tôi, tôi cũng sẽ hết sức trân trọng mối lưu luyến chẳng thể cắt rời này.
Tôi như một khách qua đường, đến bến đò Tây Đường, tôi đợi một chiếc thuyền, sắp xếp cuộc gặp gỡ trong cuộc đời. Ngay khoảnh khắc tương phùng này đã dự kiến một màn ly biệt, chỉ là cuộc đời của mỗi con người, đều vì quá trình này mà hối hả đuổi theo. Trong nhân quả đã định, không ai còn mải mê tính toán được mất. Xuôi theo dòng nước, thử quên đi hành lý nặng nề trên vai, giữa dòng chảy cứ gặp đâu vui đấy. Cây cầu cổ ở Tây Đường giống như một cây cổ cầm bắc ngang sông nước, cùng một dây đàn nhưng mỗi người lại có thể gảy nên tiếng nhạc và thanh điệu khác nhau.
Ký ức liên quan đến những cây cầu luôn khiến người ta nhớ đến bài “Đoạn chương” của thi nhân Biện Chi Lâm: “Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh. Người ngắm phong cảnh trên lầu ngắm em. Trăng sáng tô điểm khung cửa của em. Em tô điểm cho giấc mộng người khác.” Còn tôi luôn cho rằng, người đứng trên cầu chưa chắc biết mình đã trở thành phong cảnh của người khác, người ngồi trên thuyền, cũng không biết anh ta đã tô điểm cho giấc mộng của kẻ nào!
Kỳ thực, cuộc tương phùng xa lạ giữa người và người, đa phần chỉ là lướt qua nhau, cái họ có thể ghi nhớ là cây cầu kinh qua ngàn năm không đổi, chứ không phải là phong cảnh nơi họ đã dạo chân qua. Lại có lẽ, đa tình chỉ là những vị khách qua đường, vì mỗi cây cầu hàng ngày đưa tiễn biết bao vị khách, chúng chẳng có lòng nào lưu ý đến những phù hoa đó. Nước chảy róc rách chẳng ngừng, chở tôi đi về bờ bên kia, chỉ có cây cầu Tây Đường và những mái nhà miền sông nước lẳng lặng nhìn nhau mãi chẳng muộn phiền.
Ở Tây Đường, còn một nơi có thể cất giữ linh hồn, đó là Thạch Bì lộng[2] được mệnh danh là “Giang Nam đệ nhất lộng[3]”. Trong một góc nhỏ khuất tầm mắt, viết ba chữ giản dị “Thạch Bì lộng”. Một ngõ nhỏ cũ kỹ chật hẹp, giống như một chuyện cũ lạc trong góc khuất của thời gian, giữa ẩn ẩn hiện hiện, tựa như không có điểm tận cùng. Người đến Tây Đường đều sẽ không từ bỏ cuộc tương phùng này, cho dù Thạch Bì lộng xưa nay chưa từng dành cho bất cứ người nào một lời hứa dù là giản đơn. Nhưng sự chất phác mang theo vẻ thần bí lại khiến người ta có thể thấy được quá khứ chân thực.
Những bức tường cũ kỹ ghi đầy dấu vết tháng năm bị thời gian đẽo từng mảng, từng mảng một. Những ký ức rơi rụng này đã gom góp lại những lênh đênh sông nước tự cổ chí kim. Trên con đường lát đá mỏng, bước chân một số người âm thầm lại gần, bước chân một số người đã vội vã đi xa, chỉ có thời gian trầm mặc là còn lưu lại nơi đây, chưa từng hỏi nhân quả.
Theo dòng suy tư mênh mang, hoàng hôn càng lúc càng xa, Tây Đường mới thấp thoáng đèn hoa lại mang một vẻ đẹp khác. Hành lang dài ven sông treo một hàng đèn lồng đỏ, ánh đèn dịu mắt tựa như tơ lụa Giang Nam, mang theo biết bao đa tình và thương mến. Đêm Tây Đường rất tĩnh lặng, tĩnh lặng đến mức có thể nhìn thấy chiếc bóng trong giọt nước đậu trên hai bờ ngói xanh. Đêm Tây Đường, dưới ánh đèn mờ tối có một vẻ hoa lệ không thể che mờ.
Sân khấu nổi trên mặt nước là khung cảnh sinh động nhất trong màn đêm Tây Đường. Hý khúc Giang Nam truyền thống, khẽ hát tiếng Ngô uyển chuyển[4], tựa như một ly rượu nhàn nhạt dưới trăng thanh gió mát, chuốc say cả người trên, kẻ dưới sân khấu. Biết bao tháng năm đã bị sông nước nồng hậu nơi đây tưới ướt đẫm, mà họ cam tâm tình nguyện nhảy xuống nỗi ưu thương của nước, chỉ vì một nỗi xúc động dịu dàng trong tim. Mỗi người đều chất chứa trong mình một tình cảm tinh tế mà đẹp đẽ, trong phàm trần khói lửa, họ không dễ dàng bộc lộ bản thân. Là Tây Đường đã khiến họ dũng cảm bộc bạch, hơn nữa trong cuộc đời đầy gò bó, có thể có được niềm vui không thể nào quên như thế.
Ở một quán trà nào đó của Tây Đường, gọi một bình trà, lặng lẽ nhìn người đi qua lại, giữa hơi nước mờ mịt, lòng người bình thản hiền hòa. Tôi đem tất cả ký ức về Tây Đường ngâm trong bình trà này, đến khi trà nhạt, tôi liền rời đi. Hai bên chưa từng hứa hẹn, cho nên cũng không cần lưu lại dấu tích vấn vương. Ở Tây Đường, tôi chỉ là một hạt bụi bay qua tháng năm như nước chảy, có lẽ quay người, nó sẽ quên mất tôi là ai. Nhưng tôi, trước sau sẽ lưu lại đôi mắt tâm hồn, cố giữ vẻ đẹp cổ kính của nó.
Tây Đường đẹp như một giấc mộng, nhưng thực sự không phải là mộng. Có lẽ vào một ngày nào đó của nhiều năm sau, tôi sẽ đội gió vượt mưa trở về, hai bên đều đã nhạt nhoà dung nhan theo năm tháng, nhưng nó vẫn là nó, tôi vẫn là tôi.
[1] Tác giả Bạch Lạc Mai tên thật là Tư Trí Tuệ.
[2] Thạch Bì lộng: Là một ngõ nhỏ hình thành giữa hai phủ đệ của con cháu Vương gia, được lát bằng 168 viên đá, dài 68 mét, rộng 0,8 mét.
[3] Lộng, lộng đường tức là ngõ, ngách.
[4] Nguyên văn “Ngô nông nhuyễn ngữ”, tức chỉ giọng địa phương vùng Giang Nam ngữ điệu uyển chuyển dễ nghe.